Ghép mô mềm trên các trường hợp tổn thương vùng cổ răng



Hình dạng răng được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong nha khoa thẩm mỹ, và cấu trúc nướu ảnh hưởng đến hình dạng răng. Mọc răng thụ động bị biến đổi làm giảm chiều dài răng, trong khi tụt nướu làm tăng chiều dài răng. 
Việc thực hiện phục hình mà không điều chỉnh trước những bất thường về nướu có thể dẫn đến kết quả răng quá ngắn (trong trường hợp mọc thụ động bị biến đổi) hoặc quá dài (trong trường hợp tụt nướu). May mắn, cả hai vấn đề về nướu kể trên đều có thể được giải quyết.
Fig 5-1 Phân loại Miller. (a) Miller Class I. (b) Miller Class II. (c) Miller Class III. (d) Miller Class IV.

Che phủ bế mặt chân răng bằng phương pháp ghép nướu được xem là một thủ thuật có tiên lượng tốt trong hơn 25 năm qua và được thực hiện thường xuyên. Trước khi thực hiện phục hồi, cần ghi nhận tình trạng tụt nướu, xem xét có cần ghép nướu hay không. Việc che phủ toàn bộ bề mặt chân răng phụ thuộc vào tính tự nhiên của xương mặt bên và mô mềm. Miller đã mô tả một hệ thống phân loại tụt nướu đóng vài trò hướng dẫn để xác định tiên lượng của việc ghép nướu che phủ bề mặt chân răng:

- Miller Class I: Tụt nướu không kéo dài đến tiếp giác niêm mạc-nướu (mucogingival junction) (MGJ)), và không có tiêu xương mặt bên hoặc mô mềm. Che phủ toàn bộ bề mặt chân răng có tiên lượng tốt (Fig 5-1a).

- Miller Class II: : Tụt nướu kéo dài đến tiếp giác niêm mạc-nướu, và không có tiêu xương mặt bên hoặc mô mềm. Che phủ toàn bộ bề mặt chân răng có tiên lượng tốt (Fig 5-1b).

- Miller Class III: Tụt nướu kéo dài đến tiếp giác niêm mạc-nướu, và có tiêu xương nhẹ mặt bên hoặc mô mềm. Che phủ bán phần bề mặt chân răng có thể đạt được (Fig 5-1c).

- Miller Class IV: Tụt nướu kéo dài đến tiếp giác niêm mạc-nướu, và có tiêu xương nặng mặt bên và mô mềm. Không thể che phủ bề mặt chân răng (Fig 5-1d).

Việc xác định phương pháp điều trị thích hợp cho các tổn thương khiếm khuyết vùng cổ răng là một vấn đề khó khăn trên lâm sàng vì các khiếm khuyết này thường đi kèm với tụt nướu

Tổn thương khiếm khuyết vùng cổ thường thấy ở bệnh nhân trưởng thành. Những tổn thương này có thể không có triệu chứng hoặc có thể gây ra một số vấn đề bao gồm nhạy cảm, vướng thức ăn hoặc mất thẩm mỹ. Phục hồi tại các vị trí này thường có kết quả không cao, đặc biệt là trong trường hợp kích thước nướu viền không đủ.

Có ba loại tổn thương vùng cổ: (1) tổn thương không do sâu răng, (2) tổn thương vùng cổ đã phục hồi, và (3) tổn thương do sâu răng. Điều trị thích hợp cho từng loại tổn thương có thể yêu cầu điều trị phục hồi, ghép mô mềm hoặc cả phẫu thuật và điều trị phục hồi.

Tổn thương vùng cổ không do sâu răng có nhiều nguyên nhân, bao gồm soi mòn hoặc tác nhân hóa học, mài mòn hoặc tác nhân vật lý (ví dụ, đánh răng mạnh tay), và mài mòn gây ra do lực nhai. Một khi các yếu tố liên quan được xác định, năm câu hỏi có thể được sử dụng để đơn giản hóa quá trình lập kế hoạch điều trị cho cả ba loại tổn thương cổ răng. Tất cả năm câu hỏi phải được trả lời trước khi đưa ra quyết định điều trị cuối cùng.

5 câu hỏi

Để truy cập toàn bộ bài viết, xin vui lòng xem thêm tại đây
Previous Post Next Post