Q: TÍNH CHẤT CỦA COMPOSITE LỎNG đã đã được cải thiện đáng kể từ khi được giới thiệu cách đây nhiều năm. Chúng rất phổ biến và một số công ty quảng cáo chúng như thể chúng là một sự thay thế bình đẳng cho các loại composite đặc. Tuy nhiên, tôi đã thấy sự mài mòn của composite lỏng khi sử dụng ở những vị trí tiếp xúc khớp cắn, và tôi đã có những bệnh nhân thỉnh thoảng bị ê buốt sau điều trị như có thể xảy ra với composite đặc. Vui lòng chia sẽ ý kiến thẳng thắn của ông về việc sử dụng composite lỏng cho các trường hợp có chỉ định phục hồi composite. để thay thế cho composite đặc.
A: Tôi có thể trả lời câu hỏi của bạn một cách tương đối dễ dàng, dựa trên các nghiên cứu trên thế giới và của riêng chúng tôi, cũng như kinh nghiệm lâm sàng của riêng tôi. Các loại composite lỏng không phải là vật liệu thay thế thích hợp cho các loại composite đặc. Bạn có thể khẳng định rằng chúng đã được cải thiện so với các loại thế hệ cũ hơn, nhưng hàm lượng hạt độn thấp khiến một số chúng dễ bị mòn và dễ vỡ hơn so với các loại composite đặc. Ngoài ra, độ co ngót của chúng thường cao hơn so với các loại composite đặc. Các loại composite đặc thông thường co lại khoảng 2% khi trùng hợp, để lại khoảng hở ở viền khi quan sát dưới kính hiển vi, điều này tạo cơ hội cho sự xâm nhập của vi sinh vật và mảnh vụn thức ăn (hình 1).
Độ co ngót cao hơn làm cho các phục hồi với composite lỏng càng dễ gặp các vấn đề này hơn. Bất kỳ composite nào hiện nay, không phân biệt thành phần hạt độn, đều gặp những thách thức giống nhau ở nhiều mức độ khác nhau, dẫn đến sâu răng tái phát có thể xảy ra chỉ trong một vài năm. Ngược lại, các thế hệ mới của vật liệu glass ionomer có đặc tính kìm hãm sâu răng, không co ngót khi đông cứng (hình 2).
Các đặc tính của composite lỏng khi so sánh với composite đặc:
• Độ co ngót khoảng 3%, trong khi composite đặc co 2% hoặc ít hơn. Đây là một cải thiện đáng kể so với các loại composite lỏng trước đây, nhưng nó vẫn là một nhược điểm. Sự co ngót khi trùng hợp của tất cả các loại composite hiện nay là một đặc tính tiêu cực mà các công ty sản xuất đã cố gắng giảm thiểu hoặc loại bỏ trong ít nhất 70 năm qua. Song vẫn chưa được khắc phục.
• Hàm lượng hạt độn trong hầu hết các loại composite lỏng ít hơn so với các loại composite đặc thông thường, dẫn đến độ mòn cao hơn
• Composite lỏng ít giòn hơn khi chịu lực so với các loại composite đặc, tốt ở một số vị trí nhưng có thể là thách thức ở những vị trí khác.
• Không có ngoại lệ, composite lỏng yếu hơn so với composite đặc.
Vậy liệu có trường hợp nào có thể sử dụng composite lỏng không ? Câu trả lời cho câu hỏi này khá dễ dàng. Chỉ một số mục đích sử dụng có thể được hỗ trợ từ quan điểm nghiên cứu và lâm sàng. Các đặc tính được liệt kê ở trên cho thấy composite lỏng hầu như không mấy ưu điểm so với composite đặc, nhưng tại sao chúng vẫn được sử dụng. Câu trả lời là các nha sĩ bị thu hút bởi một đặc tính tích cực của chúng, đó là tính chảy lỏng ! Thông tin sau đây chia sẻ các nghiên cứu và quan sát lâm sàng của các bác sĩ có kinh nghiệm liên quan đến các tình huống mà composite lỏng được sử dụng.
Đánh giá từ dữ liệu khảo sát được thực hiện bởi Clinicians Report Foundation (CR), sửa chữa các phục hình tạm là trường hợp sử dụng composite lỏng phổ biến nhất trên lâm sàng.
SỬA CHỮA VIỀN PHỤC HỒI COMPOSITE
Có thể sử dụng composite lỏng để sửa chữa trong một số trường hợp bờ miếng trám composite bị gãy/vỡ (nhưng tất nhiên điều này cũng mang tính chất tạm thời).
SEALANTS
Sealants đã xuất hiện từ cuối những năm 1950, và một số thương hiệu vẫn được bán và sử dụng cho đến ngày nay. Làm thế nào các vật liệu sealant cũ kém hơn? Chúng có hàm lượng chất độn rất thấp, gây mòn quá mức. Độ co ngót của chúng nhiều hơn từ hai đến ba lần so với composite đặc. Kết quả của những đặc tính này, thêm vào thiếu tỉ mỉ loại bỏ mảng bám khỏi bề mặt cần sealant, đã khiến dữ liệu nghiên cứu quốc tế cho thấy 50% chất trám sealant bị bong ra trong vòng 5 năm kể từ khi đặt. Ngay cả các dự án nghiên cứu gần đây cũng cho thấy kết quả tương tự. Lý giải là: mảng bám thường không được làm sạch ra khỏi các rãnh trước khi sealant, axit không thể soi mòn qua mảng bám, dẫn đến theo thời gian, lớp sealant sẽ bị bong và sâu răng có nguy cơ tiếp tục xảy ra. CR của chúng tôi từ lâu đã đưa ra một quy trình trám sealant thành công, bản chất của nó là sử dụng đánh bóng khí để loại bỏ mảng bám và sử dụng composite lỏng thế hệ mới ngày nay
Dưới đây là quy trình để sealant thành công:
1. Làm sạch các rãnh bằng máy đánh bóng khí hoặc mũi khoan đầu nhọn (phổ biến nhất là Cavitron Prophy Jet).
2. Trung hòa lượng dư natri bicacbonat còn lại bằng axit trong ba giây (loại mà bạn sẽ sử dụng để soi mòn).
3. Nếu các rãnh vẫn còn bị ố vàng thì khả năng cao là có sâu răng đang hoạt động. Khi đó cần điều trị phục hồi. Nếu không có ố vàng, hãy chuyển sang bước 4.
4. Soi mòn các rãnh trong khoản 15-20s. Rửa sạch và thổi khô. Cẩn thận cho dung dịch glutaraldehyde lên các rãnh, tránh chạm vào mô mềm (các sản phẩm phổ biến bao gồm Zest MicroPrime, Kulzer Gluma).
5. Không rửa sạch dung dịch. Thay vào đó, hãy hút để tránh gây hại cho mô mềm
6. Bôi keo và thổi nhẹ. Lưu ý không chiếu đèn; chúng ta muốn một lớp mỏng chỉ để “làm ướt” bề mặt và cho phép composite lỏng đi vào các điểm được soi mòn.
7. Bơm composite lỏng (phổ biến nhất là Filtek Supreme Ultra Flow) và chiếu đèn.
8. Kiểm tra khớp cắn.
TRÁM LÓT
Trám lót bằng composite lỏng vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng vẫn được một số bác sĩ khuyến khích. Mặc dù một lớp composite lỏng sẽ dễ chảy vào các vị trí được soi mòn, nhưng một lớp keo mỏng cũng có thể làm được điều tương tự. Hãy nhớ lại các đặc tính tiêu cực của composite lỏng đã được thảo luận ỡ trên. Tuy nhiên, có một số nha sĩ tuyên bố đã thành công với kỹ thuật này.
Nếu sử dụng composite lỏng làm lớp lót, cần phải đưa ra một quyết định quan trọng — liệu có nên trùng hợp lớp composite lỏng trước khi đặt lớp composite đặc hay chỉ thổi nhẹ một lớp mỏng. Cả hai tùy chọn này đều có một số ưu và nhược điểm riêng. Việc sử dụng composite lỏng không phải là sở thích cá nhân của tôi. Sử dụng một lớp keo là đủ.
PHỤC HỒI CÁC VỊ TRÍ NHỎ, KHÔNG CHỊU LỰC
Composite lỏng dễ chảy vào các xoang nhỏ, nhưng các đặc tính tiêu cực của chúng làm cho kỹ thuật này ít được chấp nhận hơn so với việc sử dụng các loại composite đặc
THAY THẾ COMPOSITE ĐẶC
Có một số trường hợp khó sử dụng composite đặc, chẳng hạn như các vị trí bị lẹm và khó tiếp cận, nơi một lớp composite lỏng có thể tạo ra ít nhất một "sửa chữa" tạm thời trước khi đặt một lớp composite đặc. Nên nhớ, việc sử dụng composite lỏng thay cho composite đặc hoàn toàn đi ngược lại với các nghiên cứu và logic!
KẾT LUẬN
Các cuộc khảo sát của CR cho chúng tôi biết rằng hơn 86% nha sĩ sử dụng composite lỏng, nhưng chỉ cho những trường hợp cụ thể được mô tả trong bài báo này. Việc sử dụng composite lỏng đang giảm. Một số trường hợp khả thi có thể sử dụng composite lỏng, nhưng để thay thế cho composite lỏng thì không được khuyến khích ( fig 3).
https://drive.google.com/file/d/1awOl-ENZnalXXmFWe_SWw9ilKwCm6A9v/view?usp=share_link
Để truy cập toàn bộ bài viết, xin vui lòng xem thêm tại đây